Chế độ ăn kiêng khi viêm cầu thận cấp

Xin bác sĩ giải thích về bệnh và hướng dẫn về chế độ ăn vì chỉ cần cho chút muối là lại phù tăng. Vậy phải ăn nhạt đến bao giờ?

Đào Thị Mai (daomai@gmail.com)

Viêm cầu thận cấp (VCTC) do nhiều nguyên nhân nhưng thường xuất hiện sau một đợt nhiễm khuẩn do liên cầu khuẩn không được điều trị đúng, do quá mẫn với một số thuốc, bệnh tự miễn lupus ban đỏ hệ thống, bệnh lí thận IgA… Giai đoạn đầu của viêm cầu thận cấp người bệnh có thể thấy đau vùng thắt lưng hai bên, rối loạn tiêu hóa, chán ăn, đau bụng, buồn nôn. Khi bệnh bước sang giai đoạn toàn phát thì xuất hiện phù, lúc đầu phù nhẹ ở mặt, sau đó phù toàn thân, phù trắng, mềm ấn lõm. Điều trị chủ yếu là nghỉ ngơi và có chế độ dinh dưỡng hợp lý (ăn nhẹ, ăn nhạt). Bệnh có thể khỏi nhanh trong vài tuần, cá biệt có thể có biến chứng phù phổi cấp và tăng huyết áp. Điều đáng lưu ý là phù trong viêm cầu thận cấp phụ thuộc chế độ ăn uống, ăn mặn thì phù tăng, ăn nhạt thì phù giảm. Vì vậy nên bỏ hẳn muối mà có thể cho 2 thìa cà phê nước mắm/ngày. Nếu anh nhà có tăng huyết áp thì càng phải hạn chế natri chặt chẽ. Nếu tiểu ít, vô niệu thì bỏ hẳn rau quả, đề phòng tăng kali máu, ngược lại không thiểu niệu, không vô niệu thì cho rau quả tự do, uống nước bằng lượng tiểu ra. Tóm lại, trường hợp của chồng bạn phải điều trị tích cực theo chỉ dẫn của bác sĩ. Ngoài việc dùng thuốc người bệnh thận cần ăn nhạt thì mới giảm được phù. Tuy nhiên, việc ăn nhạt sẽ làm người bệnh cảm thấy khó ăn và không ngon miệng nên rất cần sự động viên của người chăm sóc. Sau khi đã được điều trị khỏi thì anh nhà có thể ăn uống bình thường không phải kiêng muối nữa và theo định kỳ nên tái khám để kiểm tra các chức năng thận.

BS. Trần Kim Anh

Vì sao ruột thừa quặt ngược sau gan?

Xin hỏi vì sao như vậy?

Nguyễn Văn Tân (nguyentan@gmail.com)

Ở người bình thường ruột thừa nằm ở hố chậu phải cho nên khi ruột thừa bị viêm thường đau hố chậu bên phải, đau có thể xuất hiện từ vùng trên rốn sau đó lan dần xuống hố chậu phải, đau âm ỉ. Thường không đau dữ dội, có thể kèm theo hội chứng nhiễm khuẩn như: sốt nhẹ, môi khô, lưỡi bẩn, trừ vài trường hợp khó chẩn đoán do ruột thừa lạc chỗ, ruột thừa quặt ngược sau gan dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh khác như cơn đau quặn thận… Điều cần lưu ý viêm ruột thừa là một cấp cứu ngoại khoa, nếu nghi ngờ tuyệt đối không được dùng thuốc giảm đau sẽ làm lu mờ triệu chứng, làm khó khăn trong chẩn đoán. Trong khi đó, ruột thừa diễn biến rất nhanh trong vòng 24-48 giờ có thể đã bị biến chứng hoại tử và vỡ. Trường hợp của bố bạn vì ruột thừa quặt ngược sau gan nên việc chẩn đoán nhầm với đau quặn thận có thể xảy ra. Hơn nữa, hai bệnh này xử trí cũng khác nhau. Cơn đau quặn thận có thể chỉ cần điều trị nội khoa nhưng viêm ruột thừa thì là một cấp cứu ngoại khoa càng mổ sớm càng tốt. Mặc dù ruột thừa rất nhỏ và cắt bỏ ruột thừa viêm không phải là một phẫu thuật lớn mà chỉ cần mổ nội soi nhưng nếu phát hiện muộn có thể gây biến chứng viêm phúc mạc do viêm ruột thừa hoại tử, vỡ sẽ nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và quá trình phẫu thuật buộc phải mổ ổ bụng nên hồi phục sẽ phức tạp hơn nhiều.

BS. Nguyễn Văn Thịnh

Bệnh tim bẩm sinh và Eisenmenger

(Nguyễn Sỹ Hiển - Long An)

Biểu hiện của hội chứng Eisenmenger chính là biểu hiện của bệnh tim bẩm sinh gốc, các bệnh tim có luồng thông lớn giữa tim phải và trái.

Hội chứng Eisenmenger được đặt ra khi bệnh nhân có triệu chứng của tăng áp lực động mạch phổi (khó thở nhanh nông, mệt mỏi, giảm khả năng gắng sức, ngất…), triệu chứng suy tim (khó thở khi gắng sức hoặc nằm, kịch phát về đêm, phù, bụng báng, ăn uống kém…), tình trạng đa hồng cầu, dễ chảy máu, các biến chứng sỏi thận, sỏi mật, võng mạch, đau xương khớp… tình trạng thiếu oxy lâu ngày sẽ tạo ra triệu chứng ngón tai dùi trống đặc trưng (gặp trong các bệnh tim bẩm sinh tím).

Khi khám bệnh, bác sĩ chuyên khoa sẽ phát hiện nhiều dấu hiệu tổn thương tim mạch và triệu chứng hô hấp, sẽ xác định chính xác tổn thương ở tim bằng các thăm dò huyết động, siêu âm tim, chụp cộng hưởng từ (MRI)…

Để điều trị triệt để phải dùng phẫu thuật nhằm sửa chữa các tổn thương tạo luồng thông ở tim nếu không có chống chỉ định. Phẫu thuật sửa chữa được thực hiện càng sớm càng tốt khi điều kiện bệnh nhân cho phép. Trong trường hợp không thể chỉnh sửa các tổn thương thì có thể thực hiện việc ghép tim phổi (nhờ tiến bộ trong ức chế thải trừ mảnh ghép mà tỉ lệ thành công ngày càng cao). Bên cạnh đó là phải điều trị triệu chứng để giữ lại thăng bằng cho người bệnh.

Khi vào viện, bệnh nhân được ưu tiên điều trị ở chuyên khoa tim mạch và được theo dõi nghiêm ngặt. Sau khi xuất viện phải theo dõi tái khám trong 2 tuần đầu và sau đó mỗi 3 tháng cần đánh giá lại ở chuyên gia tim mạch.

Những bệnh nhân nữ có nguy cơ có hội chứng Eisenmenger thì không được có thai, thai kỳ làm cho bệnh nặng hơn và nguy hiểm nhất là lúc chuyển dạ, thai nhi cũng sẽ gặp nguy hiểm.

Những người bị hội chứng Eisenmenger khi đi máy bay sẽ có thể có nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu (đặc biệt là ở những người có khuynh hướng đông máu), thiếu oxy khi ở áp suất cao (có thể gây cơn thiếu máu não thoáng qua).

BS.CKII. ĐẶNG MINH TRÍ

Nước rửa tay khô không an toàn như bạn tưởng

Nó có thể làm sạch các virut gây cảm lạnh, viêm họng và cúm, nhưng hoàn toàn không có tác dụng với các loại norovirus như E. coli, C. Diff. Do vậy, các nhà nghiên cứu cảnh báo việc sử dụng quá mức nước rửa tay khô có thể làm giảm khả năng phòng vệ của da và góp phần gây ra tình trạng kháng kháng sinh...

Các nhà khoa học khuyến cáo, nếu dự một bữa tiệc thay vì dùng nước rửa tay khô, hãy vào phòng tắm rửa tay với xà phòng, vừa hiệu quả hơn lại ít độc hơn.

FDA đang xem xét các thành phần trong nước rửa tay khô và cho biết hiện chưa có bằng chứng nào cho thấy loại nước này an toàn hơn so với xà phòng và nước trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng. Còn Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) khuyến cáo, chỉ dùng nước rửa tay khô trong trường hợp không có nước và xà phòng.

Thu Minh

((Theo Reuter, 3/2018))

Đừng bỏ lỡ những cách đơn giản làm giảm đau răng nhanh chóng

Dùng thuốc giảm đau

Đối với bất kỳ loại đau răng nào, việc sử dụng thuốc giảm đau, chống viêm như các thuốc kháng viêm không steroid có thể khiến bạn cảm nhận rõ ràng cơn đau đang biến mất. Tuy nhiên, đây chỉ được coi là giải pháp tình thế và bạn không nên trì hoãn việc đi khám bệnh bởi thuốc giảm đau có thể làm lu mờ triệu chứng nhưng lại khiến nguyên nhân gây bệnh nặng hơn mà chính bạn không nhận ra. Bên cạnh đó, thuốc giảm đau cũng có thể gây ra các tác dụng không mong muốn đã được ghi nhận như tổn thương gan, đau dạ dày hoặc các vấn đề về da…

Sử dụng gel benzocain

Benzocaine là thuốc gây tê có cấu trúc ester. Thuốc hấp thụ chậm, có thể dùng trực tiếp lên viết thương, vết loét. Với dạng gel có thể sử dụng để làm tê liệt cơn đau trong miệng, đặc biệt là phần nướu giúp việc ăn uống dễ dàng hơn. Đây là loại thuốc khá an toàn khi bạn sử dụng đúng liều lượng ghi trong thông tin thuốc.

Nước muối ấm

Muối có tác dụng giúp ngăn ngừa sự hủy hoại các tế bào chống viêm trong cơ thể. Do vậy, bạn có thể cho một muỗng cà phê muối vào một cốc nước sôi và chờ đến khi nước ấm không thể gây bỏng. Ngậm một ngụm nước muối ấm trong 30 giây. Bạn có thể làm điều này nhiều lần trong ngày để làm sạch miệng và loại bỏ mảng bám trên nướu, là nguyên nhân gây sưng, đau răng.

Dùng đá lạnh

Bạn có thể dùng đá lạnh rồi đựng vào trong túi hoặc gói vào trong khăn sau đó áp vào vùng răng đau 10 phút một lần. Bạn cũng có thể sử dụng đá khô để chườm mát vì lạnh có tác dụng làm giảm sưng và tê cứng cơn đau.

Dầu đinh hương

Tiến sĩ Hadaegh, nha khoa tại Mỹ khuyến cáo trước khi thực hiện biện pháp này cần làm sạch răng và lợi bằng cách đánh răng hoặc rửa bằng nước ấm hoặc nước súc miệng. Tiếp theo đó, thấm 2-3 giọt dầu đinh hương vào một quả bông rồi cắn với răng bị tổn thương 15 phút. Đinh hương có chứa thuốc gây tê tự nhiên, hoặc thuốc giảm đau, được gọi là eugenol sẽ giúp bạn giảm đau cho đến khi nha sĩ tìm ra nguyên nhân và có biện pháp xử trí hợp lý.

Lê Thu Lương

(Theo menshealth.com)

Nữ bệnh nhân rong kinh kéo dài, đi khám bác sĩ phát hiện khối u 2kg ở ổ bụng

Các bác sĩ khoa Phụ (Bệnh viện đa khoa Đức Giang- Hà Nội) vừa phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn loại bỏ thành công khối u nặng hơn 2kg cho bệnh nhân Ngô Thị M (49 tuổi) tại Long Biên - Hà Nội với tình trạng thiếu máu nặng.

Khai thác bệnh sử, bệnh nhân M cho biết, khoảng một năm trở lại đây mỗi khi đến kỳ kinh thường bị rong kinh kéo dài kèm ra máu nhiều, trong người thường xuyên thấy mệt mỏi, da xanh xao nên ngày 26/3, bệnh nhân đã quyết định đi khám.

Ê kíp các bác sĩ tiến hành phẫu thuật lấy khối u cho nữ bệnh nhân M.

Tại phòng khám, bác sĩ khám và cho chỉ định siêu âm, chụp CT- Scanner và các xét nghiệm cần thiết. Kết quả siêu âm và chụp CT-Scanner cho thấy trong ổ bụng của bệnh nhân có khối u to với kích thước trên 20cm, nghi ngờ u xơ tử cung, hình ảnh khối u to vượt quá màn hình siêu âm kèm tình trạng thiếu máu nặng.

Ngay sau đó bệnh nhân được nhập viện. Tại đây các bác sĩ đã hội chẩn chuyên khoa và đưa ra kết luận “bệnh nhân có khối u to trong ổ bụng nghĩ nhiều đến u xơ tử cung có biến chứng gây rong kinh, băng huyết thiếu máu nặng và được chỉ định phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn để loại bỏ khối u”. Tuy nhiên, với tình trạng thiếu máu nặng do rong kinh kéo dài, trước khi cắt bỏ khối u bệnh nhân M đã được các y bác sĩ truyền 3 đơn vị khối hồng cầu, 1 đơn vị khối huyết tương để nâng cao thể trạng, đảm bảo an toàn trong quá trình phẫu thuật.

Sau khi được điều trị nâng cao thể trạng, sáng ngày 28/3 các bác sĩ khoa Phụ đã tiến hành phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn loại bỏ khối u to cho bệnh nhân M. Sau gần 2 giờ phẫu thuật, các bác sĩ đã loại bỏ toàn bộ khối u to nặng hơn 2kg của bệnh nhân M.

BS Phạm Thị Hải Yến – phụ trách khoa Phụ cho biết, với khối u to như vậy sẽ gây đau đớn cho bệnh nhân, do vậy để giảm sự lo lắng cho bệnh nhân, các bác sĩ khoa Phụ kết hợp với khoa Gây mê hồi sức của bệnh viện đã tiến hành giảm đau bằng phương pháp gây tê ngoài màng cứng, giúp giảm đau cho bệnh nhân những ngày đầu sau mổ.

Khối u có trọng lượng khoảng 2kg được lấy ra từ ổ bụng của bệnh nhân M.

Hiện tại sức khỏe bệnh nhân đã ổn định và dự kiến sau phẫu thuật một tuần sẽ được ra viện.

Qua trường hợp này, BS Yến cũng khuyến cáo: Các chị em phụ nữ lớn tuổi, đặc biệt các chị em trong độ tuổi tiền mãn kinh nên đi khám phụ khoa định kỳ để phát hiện sớm các bệnh lý phụ khoa, sàng lọc sớm ung thư cổ tử cung và có phương án điều trị kịp thời tránh những biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.

Thái Bình

Người Việt đang nạp vào người lượng muối ăn cao gấp đôi so với khuyến cáo

Thông tin trên được đưa ra tại hội thảo báo chí truyền thông vận động giảm ăn muối để phòng chống tăng huyết áp, tai biến mạch máu não và các bệnh không lây nhiễm khác do Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) tổ chức sáng 27-3.

Theo TS. Trương Đình Bắc, Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, ăn nhiều muối là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến mắc và tử vong do các bệnh tim mạch và một số bệnh không lây nhiễm khác. Ăn nhiều muối còn làm tăng nguy cơ gây suy thận, loãng xương và ung thư đường tiêu hóa, đặc biệt là ung thư dạ dày. Trong năm 2012, ước tính toàn quốc có tới 112.600 trường hợp chết chỉ riêng do tai biến mạch máu não (chiếm tới 21,7% tổng số tử vong) và 36.500 trường hợp chết do nhồi máu cơ tim (chiếm 7% số tử vong).

Cứ năm người trưởng thành thì có một người tăng huyết áp, cứ trong ba trường hợp tử vong thì có một trường hợp do các bệnh tim mạch, chủ yếu là tử vong do tai biến mạch máu não.

Theo một nghiên cứu thói quen sử dụng muối tại TP Hồ Chí Minh, hiện nay, 73% các hộ gia đình sử dụng mì ăn liền; 37% sử dụng đồ đóng hộp, 31% có ăn xúc xích và còn lại là các sản phẩm cháo ăn liền; các sản phẩm đóng gói ăn liền… Trong khi hàm lường muối trong một số thực phẩm bao gói sẵn có hàm lượng muối rất cao, gói mì ăn liền khoảng 5-7g muối/100g sản phẩm; 1,5-2,3 g muối/100g xúc xích.

TS. Trương Đình Bắc cho hay: Theo điều tra năm 2015, 89,2% người nấu ăn luôn cho muối, mắm, gia vị mặn khác vào thực phẩm khi chuẩn bị, chế biến và nấu ăn; 70% thường xuyên trộn, chấm mắm, muối, bột ngọt, nước tương, mì chính và các gia vị có muối khác với thức ăn trong khi ăn; 19,5% thường xuyên ăn thức ăn chế biến sẵn có nhiều muối như dưa, cà muối, mì ăn liền, lạc rang muối…

TS. Trương Đình Bắc, Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết: Ăn nhiều muối là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến mắc và tử vong do các bệnh tim mạch và một số bệnh không lây nhiễm khác.

TS. Jun Nakagawa, Phó trưởng đại diện WHO tại Việt Nam nhấn mạnh, hiện nay thế giới cũng đang sử dụng muối quá cao, trung bình khoảng 10g/ngày. 19 quốc gia đã giảm muối trong ít nhất một sản phẩm chủ yếu là bánh mì. 11 quốc gia báo cáo giảm muối trong thịt chế biến, cheese, các loại ngũ cốc ăn sáng, nước sốt và các bữa ăn làm sẵn.

“Việt Nam nên xây dựng khuyến nghị về lượng muối tối đa trong 100g thực phẩm, ưu tiên thực phẩm nhiều muối và phổ biến như mì ăn liền, xúc xích… Cần bắt buộc công bố sản phẩm của các công ty một cách tự nguyện. Việt Nam nên xây dựng môi trường hỗ trợ tại trường học, bếp ăn tập thể cũng như ban hành và thực thi quy định về dán nhãn, cảnh báo sức khỏe; cấm quảng cáo thực phẩm nhằm vào trẻ em” – TS. Jun Nakagawa bày tỏ ý kiến.

Ông Trần Đắc Phu – Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng

Theo ông Trần Đắc Phu – Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng: Hiện nay, Việt Nam còn thiếu hụt chính sách, kế hoạch liên quan đến can thiệp giảm muối. Ví dụ như chính sách dãn nhãn thực phẩm (công bố hàm lượng muối trong sản phẩm, cảnh báo thực phẩm nhiều muối, tại hại sức khỏe của ăn nhiều muối); quy định về hàm lượng muối tối đa có trong 100g thực phẩm đối với một số lại thực phẩm bao gói sẵn… Việt Nam cũng chưa có chính sách liên quan đến hạn chế quảng cáo, tiếp thị, kinh doanh các sản phẩm chứa nhiều muối; quy định về tổ chức bữa ăn học đường và cung cấp thực phẩm giảm muối cho học sinh…

Đến năm 2025, Việt Nam đặt ra mục tiêu sẽ có hơn 90% người trưởng thành biết tác hại do ăn nhiều muối; giảm mức tiêu thụ muối ăn trung bình của người trưởng thành xuống còn dưới 7g/người/ngày; hơn 70% số học sinh thực hiện ít nhất một biện pháp để giảm ăn muối theo khuyến cáo; hơn 90% số người được phát hiện mắc tăng huyết áp, bệnh tim mạch được tư vấn, hướng dẫn thực hiện chế độ ăn giảm muối.

Để thực hiện điều này, ông Trần Đắc Phu khuyến cáo, mỗi người hãy giảm một nửa lượng muối ăn vào hằng ngày để phòng chống tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, bệnh tim mạch và các bệnh không lây nhiễm khác. Hạn chế lựa chọn, sử dụng thực phẩm có nhiều muối và thay bằng thực phẩm tự nhiên.

Thanh Loan

Nga phát minh thành công ứng dụng khám sức khỏe qua “selfie”

Theo tác giả chính của MeCare kiêm nhà quản lý dự án, Sergei Blintsov, ứng dụng cũng có thể tích hợp với vòng tập thể hình hoặc đồng hồ thông minh để cung cấp cho chủ sở hữu hình ảnh rõ nét hơn về tình trạng thể chất của mình.

Ứng dụng hỗ trợ điện thoại thông minh được các kỹ sư công tác tại Viện Công nghệ Nizhny Novgord sẽ giúp người dùng iPhone chẩn đoán bệnh ở giai đoạn đầu

“MeCare đưa ra một phương pháp đặc biệt để chẩn đoán nhiều loại bệnh bao gồm chẩn đoán nhanh về Parkinson và xác định nguy cơ bệnh tim mạch bằng cách phân tích các bức hình selfie của một bệnh nhân”, ông Blintsov cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Thông tấn Sputnik.

Ông cho biết thêm một phân tích về hiệu quả thuật toán trong ứng dụng cho thấy tỷ lệ chẩn đoán chính xác đến 95%. Nhóm nghiên cứu MeCare thậm chí đang phát triển thuật toán mới hơn để mở rộng danh mục các bệnh mà công nghệ mới có thể chẩn đoán.

Ý tưởng phát triển MeCare xuất hiện sau khi nhóm tham gia vòng chung kết cuộc thi sáng tạo công nghệ quốc tế Icrosoft Image 2017 bằng một dự án khác.

“Y khoa và chăm sóc sức khỏe là lĩnh vực quan trọng đối với đời sống chúng ta và tôi tin chắc rằng nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục phát triển trong những thập niên tới. Tôi tin rằng đơn xin cấp bằng sáng chế đối với MeCare sẽ được miễn phí. Chúng tôi cũng có kế hoạch trả tiền tư vấn và chúng tôi đang phát triển hàng loạt thiết bị hồi phục sức khỏe dành cho khách hàng”, ông Sergei Blintsov cho biết.

Hoa Quỳnh

(Theo Sputnik News)

Những “thủ phạm” gây nên bệnh tự miễn

Những chứng bệnh rất phổ biến của thời đại hôm nay như các chứng bệnh của đường ruột, viêm màng nhầy tử cung, mệt mỏi kinh niên, chứng u xơ, đau cơ... hiện là dấu hiệu của một “gia đình bất hòa”. Tại các nước phương Tây, bệnh tự miễn chiếm tuần suất 1/5 và cũng thật là bất công, phụ nữ lại là nạn nhân chính.

Sự tự miễn (autoimmunity) xảy ra khi hệ miễn dịch của cơ thể lại tấn công vào các mô của chính cơ thể đó. Cần nên biết rằng sự tự miễn hoàn toàn khác xa với sự dị ứng (allergy). Trong sự dị ứng, hệ miễn dịch của cơ thể tấn công vào những phần tử lạ xâm nhập vào cơ thể tỉ như phấn hoa, bụi bặm...

Sự tự miễn sẽ dẫn đến hậu quả là sự hủy diệt các mô, tế bào của chính cơ thể mà hệ miễn dịch đã tấn công vào và sẽ gây nên những chứng bệnh vô cùng nghiêm trọng. Sự tự miễn có thể tác động vào nhiều mô cùng một lúc như bệnh lupus hoặc chỉ tác động vào từng cơ quan riêng lẻ chẳng hạn như các bệnh của tuyến giáp. Bênh tự miễn có thể gây ra trên 80 tình trạng bệnh (conditions) khác nhau.

Bệnh tự miễn hiện là mộ chủ đề y học đươc nghiên cứu mạnh mẽ nhất hiện nay. Số người bị bệnh tự miễn ngày một gia tăng, nhất là chứng đa xơ cứng (multiple sclerosis). Chỉ trong vòng một thập kỷ, số bệnh nhân đa xơ cứng đã tăng gấp đôi.

Các nhà y học đã mạnh mẽ “tố cáo rằng chính môi trường sống hiện đại là thủ phạm “đâm bị thóc, thọc bị gạo”. Ngoài ra cũng cần phải kể đến các yếu tố di truyền. Bạn sẽ rất có khả năng bị “dính” bệnh tự miễn nếu như người thân của bạn đã từng “dính”. Tuy nhiên, không nhất thiết là có chung tình trạng bệnh, ví dụ như nếu người thân của bạn bị các bệnh về tuyến giáp thi bạn không nhất thiết bị các bệnh về tuyến giáp, thay vào đó, bạn sẽ bị lupus...

Y học hiện đại đã “chỉ mặt điểm tên” 5 thủ phạm đã nhúng tay vào quá trình tự miễn.

Những “thủ phạm” gây nên bệnh tự miễnBệnh tự miễn có thể gây ra trên 80 tình trạng bệnh khác nhau

1. Sự thiếu hụt vitamin D: vitamin D là một “biên tập viên” của hệ miễn dịch. Vitamin D sẽ hỗ trợ hệ miễn dịch chống lại ung thư. Ngăn ngừa sự nhóm họp của những “thành phần phản động” trong hệ miễn dịch. Vitamin D được cơ thể tổng hợp nhờ vào ánh sáng mặt trời. Những quốc gia ở vĩ độ cao như Canada và New Zealand có tần suất người mắc bệnh tự miễn cao nhất thế giới. Để chắc ăn rằng bạn không bị thiếu vitamin D, lượng vitamin D có trong máu khi đem xét nghiệm cần phải đạt ở con số 100 - 150 pg/ml.

2. Sự nhiễm trùng: sẽ làm ngòi nổ cho một số bệnh tự miễn chẳng hạn như: sốt thấp khớp, viêm cột sống... trong sự viêm nhiễm, các tế bào của chính cơ thể lại “na ná” như vi trùng. Vì vậy, hệ miễn dịch lại “khôn nhà, dạ chợ”. Thay vì đánh vi trùng, lại đi tiêu diệt “người nhà”.

3. Sự xáo trộn vi khuẩn đường ruột: có hàng tỉ tỉ vi khuẩn sống ở trong ruột có vai trò điều hòa hệ miễn dịch. Trong vài thập kỷ gần đây, màng nhầy ruột của chúng ta đang “la làng” vì sự sử dụng kháng sinh bừa bãi, sự sử dụng thuốc ngừa thai vô tội vạ. Phong trào làm ốm cũng là kẻ tòng phạm. Sự mất cân bằng của hệ vi sinh đường ruột cũng sẽ dẫn đến các chứng tự miễn và các rối lọan miễn dịch.

4. Hội chứng rò ruột: một khi hệ vi khuẩn đường ruột bị xáo trộn, sự tiêu hóa trở nên kém hiệu quả, màng nhầy ruột sẽ bị tổn hại. Hàng rào phân cách ruột và máu bị hóa giải. Các phần tử thức ăn sẽ thừa cơ hội từ ruột ngao du vào máu và tạo “gánh nặng” cho hệ miễn dịch từ đó hệ miễn dịch “nổi cáu” dẫn đến sự tự miễn.

5. Ô nhiễm môi trường: bệnh tự miễn, nhất là bệnh lupus, càng trở nên nghiêm trọng hơn khi môi trường sống bị ô nhiễm. Những “tội phạm môi trường” nổi danh nhất là thủy ngân, thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm tóc, bao ni lông... Những hóa chất này gây tổn hại một cách trực tiếp lên hệ miễn dịch. Bệnh tự miễn bị gây ra trong trường hợp này là do các mô của cơ thể bị tổn hại và bị biến đổi đến nỗi hệ miễn dịch “nhìn không ra. Nơi đáng thương nhất chính là tuyến giáp, vì chúng phải hứng chịu độc chất môi trường nhiều nhất, từ đó gây nên những rối loạn về tuyến giáp. Hiện có “lai rai” khoảng 30.000 hóa chất độc hại đang được sử dụng và chưa bao giờ được thử nghiệm xem tác hại của chúng như thế nào nếu đem sử dụng lâu dài.

Vì sao bệnh tự miễn cũng “phân biệt giới tính”? Có đến 79% số bệnh nhân tự miễn là nữ giới. Một trong những nguyên nhân là do hệ miễn dịch của phụ nữ sẽ bị thay đổi trong thời gian mang thai. Trong thai kỳ, những tế bào phôi thai có thể di cư vào cơ thể mẹ và “bám trụ” ở đó hàng thập kỷ. Những tế bào di cư này giúp cơ thể người mẹ kháng lại một số bệnh tật, tuy nhiên, chúng cũng trở nên “nghịch tử”, làm cho cơ thể người mẹ trở nên mắc chứng tự miễn. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng dễ bị rủi ro từ một hoóc-môn giới tính oestrogen. Oestrogen “kích động” sự tự miễn. Những loại thuốc oestrogen tổng hợp như thuốc tránh thay, liệu pháp thay thế hoóc-môn càng làm gia tăng khả năng tự miễn.

DS.NGUYỄN BÁ HUY CƯỜNG (Australia)

Thuốc lá điện tử làm tăng nguy cơ mắc bệnh nan y và bệnh tim

Các nhà khoa học đã cho những con chuột hút thuốc lá điện tử trong 12 tuần. Những con chuột này đã bị tổn thương DNA của bàng quang, tim và phổi. Như vậy, nicotin từ thuốc lá điện tử có thể trở thành chất gây bệnh nan y trong cơ thể người dùng.

Nghiên cứu này không hoàn toàn gây sốc khi các nhà nghiên cứu xác định các hóa chất độc hại khác nhau có trong thuốc lá điện tử. Tất cả đều cho thấy thuốc lá điện tử là có hại.

Cũng theo nghiên cứu, lượng chất nitrozoamin (gây bệnh nan y) được tìm thấy trong dịch cơ thể của người sử dụng thuốc lá điện tử thấp hơn so với người hút thuốc thường, nhưng rõ ràng là cao hơn đáng kể so với người không hút thuốc. Điều này cũng đặt người sử dụng thuốc lá điện tử đối diện nguy cơ mắc bệnh nan y ở mức tương tự như hút thuốc lá thông thường.

Lê Khuê

((Theo AFP))

Nên siêu âm mấy lần khi mang thai?

Ngô Liên(Tuyên Quang)

Khi mang thai, siêu âm cho nhiều giá trị chẩn đoán và giúp phát hiện những bất thường trong quá trình mang thai. Thông thường trong mỗi lần mang thai, tối thiểu cần có 3 lần siêu âm vào các khoảng sau: 10 - 12 tuần, 20 - 24 tuần và 30 - 32 tuần;

Lúc 10 - 12 tuần, thai nhi đã có đủ hình hài và các bộ phận, những bất thường lớn có thể nhìn thấy ở thời điểm này. Ở thời điểm này, việc đo khoảng mờ sau gáy có giá trị tiên lượng cho các bệnh lý tim mạch hay bất thường về nhiễm sắc thể (mà thường hay gặp nhất là bệnh Down);

Vào lúc 20 - 24 tuần là lúc lượng nước ối có nhiều, thai đã khá lớn và di động rất tốt trong buồng tử cung, giúp cho việc quan sát thai khá tốt ở nhiều góc độ khác nhau, nên dễ dàng phát hiện các bất thường về hình thể thai. Siêu âm giai đoạn này chủ yếu nhằm phát hiện các bất thường của thai.

Lần siêu âm thứ ba (30 - 32 tuần) nhằm đánh giá sự phát triển thai, đa số các trường hợp suy dinh dưỡng thường được phát hiện vào lúc này. Vị trí bánh nhau lúc này cũng sẽ được chẩn đoán chắc chắn hơn. Một số bất thường thai có thể xuất hiện hay phát triển muộn, sẽ được phát hiện tiếp vào lúc này.

Khi gần sinh cũng có thể có thêm một lần siêu âm để xác định kích thước thai, mức độ trưởng thành của bánh nhau và lượng nước ối. Ngoài ra, trong quá trình mang thai, nếu cháu thấy có gì bất thường có thể đi khám và siêu âm để bác sĩ phát hiện và xử trí những tình huống bất ngờ có thể xảy ra.

BS. Anh Tú

`Bóc` khối u tử cung `khủng` 7kg cứu bệnh nhân nguy cấp vì suy thận

Ngày 2/4, Bệnh viện K cho biết, các bác sĩ của Bệnh viện vừa phẫu thuật thành công cho nữ bệnh nhân 54 tuổi mang trong mình một khối u cổ tử cung khổng lồ nặng 7kg, chèn ép vào ổ bụng, gây suy thận, tắc ruột nếu không phẫu thuật kịp thời nguy cơ tử vong rất lớn.

Trước đó, bệnh nhân Nguyễn Thị P. (54 tuổi) trú tại Hải Phòng nhập viện trong tình trạng mệt mỏi, đau hạ vị và bụng căng to.

Qua khai thác bệnh sử, các bác sĩ Khoa Ngoại Phụ khoa cho biết, bệnh nhân có triệu chứng đau bụng kéo dài 6 tháng, nhưng do chủ quan nên không đi thăm khám sức khỏe định kì. Tuy nhiên 1 tháng trở lại đây, gia đình phát hiện bụng bệnh nhân ngày càng to ra kèm theo dấu hiệu mệt mỏi, ăn uống kém thấy đau tức bụng, chướng bụng nhiều hơn, sờ rõ khối u kích thước lớn nổi gồ, đẩy lệch hẳn về bên phải thành bụng, đại tiện khó khăn nên gia đình đưa bệnh nhân vào viện.

Hình ảnh phim X-Q khối u

Bệnh nhân được làm các xét nghiệm để chẩn đoán, chỉ điểm khối u, chụp cắt lớp vi tính ổ bụng và hội chẩn toàn khoa. Kết quả chụp cắt lớp vi tính ổ bụng cho thấy vùng tiểu khung lệch trái có khối tỷ trọng kích thước 26x15x18 cm phát triển lên phía trên bên phải ổ bụng, đè đẩy các quai ruột, ngấm thuốc sau tiêm kèm theo vôi hóa và có dịch trong khối, kèm theo hạch nhỏ lân cận. Các bác sĩ chẩn đoán khối u lớn tiểu khung theo dõi u xơ tử cung kích thước lớn hoặc u quái buồng trứng phải.

Tiên lượng đây là một ca bệnh khó vì khối u rất lớn, chèn ép nhiều cơ quan, cộng thêm thách thức là bệnh nhân bị suy thận, nếu không phẫu thuật kịp thời, nguy cơ bệnh nhân tử vong rất cao. Không còn thời gian chờ đợi, các bác sĩ quyết tâm tiến hành phẫu thuật.

Các bác sĩ của Bệnh viện K phẫu thuật lấy khối u "khủng" cho bệnh nhân

Kíp mổ gồm các y bác sĩ khoa Ngoại phụ khoa là Ths.Bs Phạm Thị Diệu Hà, Phó trưởng khoa và BS Trương Văn Hợp cùng kíp gây mê đã tiến hành phẫu thuật cắt bỏ khối u. Do khối u kích thước lớn làm biến đổi giải phẫu các cấu trúc trong tiểu khung như niệu quản, trực tràng, động mạch chậu 2 bên, mặt khác u lại giàu mạch máu nuôi dưỡng nên nguy cơ chảy máu rất cao nên gây nhiều khó khăn trong việc phẫu tích. Các bác sĩ đã thực hiện phẫu tích tỉ mỉ bóc tách và bảo tồn được các cấu trúc quan trọng trong cuộc mổ.

Khối u chèn ép lớn các cơ quan trong ổ bụng bệnh nhân P. được lấy ra sau ca phãu thật kéo dài 2h đồng hồ

Đúng như dự đoán trước mổ thân tử cung có nhiều khối u xơ kích thước đường kính khoảng 30cm, vùng cổ tử cung có khối u lan rộng vào trong dây chằng rộng kích thước 15x13 cm, dính sát mặt sau bàng quang và mặt trước trực tràng, làm biến đối cấu trúc giải phẫu tiểu khung, gây giãn và đẩy lệch niệu quản 2 bên. Khối lượng khối u lấy ra khỏi cơ thể là 7kg.

Sau mổ các bác sĩ chẩn đoán đa u xơ ở thân tử cung và dây chằng rộng kích thước lớn. Ca phẫu thuật đã diễn ra thành công, bệnh nhân dần ổn định.

Ths.Bs Phạm Thị Diệu Hà, Phó Trưởng khoa Ngoại phụ khoa - Bệnh viện K cho biết, nếu không được phẫu thuật kịp thời, sức khỏe bệnh nhân sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phụ nữ cần đi khám phụ khoa định kỳ để phát hiện sớm bệnh

BS Diệu Hà chia sẻ, u xơ cổ tử cung là bệnh có thể gặp ở bất cứ phụ nữ nào, thường là lành tính. Tuy nhiên nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời, bệnh nhân vẫn có thể phải đối mặt với những nguy hiểm của u cổ tử cung khi vỡ vào trong ổ bụng, hay u to gây chèn ép các cơ quan, bộ phận bên trong. Do vậy, nếu phát hiện u cổ tử cung thì chị em phụ nữ cần phải đi khám ngay để được chỉ định điều trị hay phẫu thuật sớm để tránh biến chứng và xác định chính xác bản chất khối u là lành tính hay ung thư.

Việc chẩn đoán u cổ tử cung hiện nay không quá khó qua khám lâm sàng và sự trợ giúp của siêu âm, vì vậy chị em phụ nữ cần có ý thức tuân thủ việc thăm khám sức khỏe định kỳ, nhất là khi thấy các bất thường.

“Chị em phụ nữ nên đi khám phụ khoa và siêu âm ít nhất 1 lần/năm, nhất là phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ, nếu có những dấu hiệu bất thường ở ổ bụng (bụng dưới) như bụng to lên nhanh, đau bụng vùng hạ vị, rối loạn kinh nguyệt…, chị em phụ nữ cần đi khám ngay để loại trừ các u cổ tử cung, u nang buồng trứng… Bởi khi phát hiện sớm, các bác sĩ sẽ có tư vấn cần thiết và chỉ định can thiệp sớm cho bệnh nhân, tránh tình trạng để u quá to, ảnh hưởng tới sức khỏe mới đi thăm khám”- BS Diệu Hà khuyến cáo.

Thái Bình

Đau mắt đỏ, đừng tự chữa khiến bệnh lành tính bị biến chứng nặng

Tuy nhiên, một số trường hợp không tuân thủ điều trị, hoặc tự ý điều trị khiến bệnh không hết, tiến triển nặng và phức tạp hơn, gây ra một số biến chứng, cũng như tác dụng phụ của thuốc.

Bệnh nhân khi bị đau mắt đỏ đã dùng những thuốc không đúng như chứa corticoid hoặc kháng sinh không theo chỉ định. Corticoid nếu dùng không đúng có thể giảm sức đề kháng, bệnh nhân có thể bị tổn thương thêm dẫn đến những biến chứng như loét giác mạc (tròng đen), tăng nhãn áp. Corticoid có thể làm xuất hiện một cơn cườm nước trên những bệnh nhân có cơ địa nhạy cảm, khiến bệnh chồng bệnh. Còn thuốc nhỏ mắt chứa kháng sinh có thể gây kích thích mắt, dẫn đến tổn thương kết mạc hoặc niêm mạc mắt.

Xông nước thuốc, nhỏ chanh, đắp lá nha đam hay đắp lá trầu, hoặc đắp ếch có thể khiến mắt sưng phù, bỏng

Bên cạnh đó, một số trường hợp dùng phương pháp dân gian rất sai lầm càng làm mắt tổn thương thêm. Ví dụ, người dân xông nước thuốc, nhỏ chanh, đắp lá nha đam hay đắp lá trầu, hoặc đắp ếch có thể khiến mắt sưng phù, bỏng. Thậm chí, khoa Mắt - BV. Trưng Vương từng tiếp nhận và phát hiện trường hợp mắt bị một ổ sán ếch do xẻ thịt ếch đắp để điều trị đau mắt đỏ.

Thời tiết với độ ẩm cao thường là điều kiện thuận lợi cho các loại virút, vi trùng sinh sôi nảy nở, phát triển nhanh hơn nên bệnh đau mắt đỏ cũng thường xảy ra trong thời gian này, nhất là hè - thu. Tuy nhiên, năm nay do thời tiết đến gần Tết vẫn còn mưa nhiều, nên bệnh đau mắt đỏ có cơ hội xảy ra sớm hơn, lây lan nhiều. Khoa Mắt - BV. Trưng Vương cũng đã đón nhận một đợt rất nhiều bệnh nhân đau mắt đỏ đến khám và điều trị.

Đau mắt đỏ, đừng tự chữa khiến bệnh lành tính bị biến chứng nặngKiểm tra và khám mắt cho bệnh nhân

Đau mắt đỏ nếu được khám và chẩn đoán là viêm kết mạc cấp, thường có 3 nhóm bệnh do 3 loại nguyên nhân gây ra:

Do virút: triệu chứng rầm rộ: mắt đỏ, xốn cộm, nhiều ghèn, nhiều dịch tiết; có thể có triệu chứng toàn thân như là hơi sốt, nổi hạch trước tai, đau họng…

Do vi trùng: mắt bị đỏ, ngoài ghèn, dịch tiết, còn kèm theo mủ do tình trạng nhiễm trùng.

Dị ứng: ngoài chuyện đỏ mắt, ghèn, dịch tiết, bệnh nhân thường bị ngứa và phù quanh mắt, mi mắt hơi sưng.

Trong trường hợp đau mắt đỏ do virút hoặc dị ứng thường xảy ra ở cả hai mắt, riêng đau mắt đỏ do vi trùng, thường chỉ có một mắt nặng hơn mắt bên kia. Và chúng ta đang ngộ nhận giữa từ “đau mắt đỏ” và dịch đau mắt đỏ. Dịch đau mắt đỏ là do virút gây ra.

Viêm kết mạc xảy ra ở mọi lứa tuổi, vì nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh chung cho mọi người; nhưng thường xảy ra ở lứa tuổi học sinh cũng như người đi làm do có tiếp xúc với cộng đồng cho nên dễ bị lây lan với nhau. Bệnh thường lây lan qua đường hô hấp (hơi thở), nước bọt, đặc biệt là dịch tiết ở mắt. Virút trong dịch tiết có thể tồn tại ở bề mặt khô trong vòng 24 - 48g đồng hồ. Do đó, người bệnh cần mang kính che chắn, hạn chế tiếp xúc; rửa tay thường xuyên cả người bệnh lẫn người lành, tránh đưa tay lên mắt.

Còn đối với nước muối sinh lý nói chung không hại gì cho mắt, có thể sử dụng để rửa mắt thường xuyên. Tuy nhiên, trong đợt dịch đau mắt, hạn chế đưa tay lên mắt vì có thể dẫn đến lây bệnh cho con mắt còn lại hoặc cho người khác. Cho nên, nếu một người đang bị đau mắt đỏ một mắt, không nên nhỏ nước muối sinh lý vào con mắt còn lại.

BS.CKII. NGUYỄN THẾ HỒ

Chủ động phòng đột quỵ não

Đột quỵ não chính là tai biến mạch máu não, bệnh xảy ra khi việc cung cấp máu lên một phần bộ não bị đột ngột ngừng trệ dẫn đến tổn thương não không hồi phục. Tai biến mạch máu não có hai loại: nhồi máu não (do nghẽn / tắc mạch) hoặc chảy máu não (do vỡ mạch). Đột quỵ não là bệnh của hệ thần kinh phổ biến nhất hiện nay.

Sự nguy hiểm

Đột quỵ não là tai biến mạch máu não được xem là một trong những bệnh lý nguy hiểm nhất được xếp đứng thứ 3 về nguyên nhân gây tử vong và đứng hàng đầu về nguyên nhân gây tàn phế. Mỗi năm, trung bình nước ta có thêm 200.000 người bị đột quỵ não. Thống kê tại các bệnh viện cho thấy, bệnh nhân đột quỵ não tăng cao khi thời tiết thay đổi, đặc biệt trong điều kiện khí hậu lạnh giá, nhất là lạnh đột ngột số bệnh nhân bị đột quỵ não nhập viện gia tăng đáng kể (khoảng 15 - 30% so với bình thường).

Chủ động phòng đột quỵ não

Đột quỵ não chủ yếu do thiếu máu não cục bộ gây tổn thương não không hồi phục. Quá trình thiếu máu não cục bộ có thể do giảm tưới máu não vì huyết động giảm hoặc do tắc mạch máu trong não hay sọ não bởi huyết khối (cục máu đông) hoặc do mảng xơ vữa động mạch bị bong ra. Với trường hợp chảy máu não thường do vỡ mạch máu não thông thường bởi tăng huyết áp đột ngột dẫn đến xuất huyết nội sọ hoặc xuất huyết dưới màng nhện.

Gần đây, các nghiên cứu đã chỉ ra gốc tự do (Free radical), “độc chất” sinh ra từ quá trình chuyển hóa của cơ thể hoặc hình thành do tác động của ô nhiễm môi trường, thuốc lá, rượu bia... là tác nhân quan trọng làm hình thành mảng xơ vữa, cục huyết khối - nguyên nhân chính gây ra đột quỵ não. Gốc tự do tấn công làm tổn thương nội mạc mạch máu, khiến thành mạch không còn trơn tru, mượt mà, làm xuất hiện các mảng xơ vữa và cục huyết khối gây ra hiện tượng thiếu máu não thoáng qua, thậm chí gây tắc mạch do cục máu đông. Thời gian bị tắc càng lâu thì tế bào thần kinh tại các vùng não không được cung cấp oxy và dưỡng chất sẽ càng trở nên suy yếu hoặc chết đi, dẫn đến cơn đột quỵ não.

Vì sao những ngày trời lạnh, rét dễ bị đột quỵ não?

Dưới ảnh hưởng của thời tiết giá lạnh, nhất là khi gặp lạnh đột ngột, đặc biệt với người đang bị tăng huyết áp hoặc người bị bệnh về tim mạch (xơ vữa mạch, tăng mỡ máu…), lưu lượng máu đến não giảm 1/5 so với bình thường do mạch máu giảm tính đàn hồi, lòng mạch bị thu hẹp một cách đột ngột. Mặt khác, khi huyết áp tăng cao đột biến sẽ làm tăng áp lực trong lòng mạch, dẫn đến vỡ thành động mạch, đặc biệt, người đã có biến chứng xơ vữa động mạch hay cục máu đông, mạch máu dễ bị tắc, thậm chí có thể vỡ mạch máu dẫn đến xuất huyết não, đột quỵ khiến nguy cơ tử vong có thể xảy ra.

Dấu hiệu

Một số triệu chứng có thể cảnh báo đột quỵ não như nhức đầu nhiều, mất thăng bằng đột ngột, ù tai, điếc đột ngột, khó nuốt, mắt mờ hay chậm hiểu một cách bất thường. Khi đột quỵ xảy ra, có thể nhận thấy là mặt bệnh nhân bị méo, có cảm giác tê, cứng nửa bên mặt hoặc 1/4 mặt dưới. Nếu nghi ngờ, hãy yêu cầu bệnh nhân cười, thổi (miệng méo) méo có thể sẽ rõ hơn. Chân và tay, diễn tiến từ từ như tê mỏi một bên tay, vụng về trong những thao tác, công việc quen thuộc (đưa tay lên hoặc xoay tay rất khó, vụng về). Trong người hợp nghi ngờ người bị đột quỵ, hãy yêu cầu họ giơ cả hai tay lên và giữ nguyên trong 1 phút, nếu bị đột quỵ thông thường một bên tay bị yếu, liệt sẽ tự động rơi hoặc hạ thấp xuống

Chủ động phòng đột quỵ não

Người bệnh đi dễ bị vấp ngã, bước đi khó khăn hoặc nặng nề hơn bình thường; nhấc chân lên rất khó khăn hoặc dép dễ bị rơi... Một số người đột quỵ nói khó và môi, lưỡi bị cứng, tê. Có thể yêu cầu người bệnh nói một vài câu, từ đó, có thể nhận ra bệnh nhân nói không rõ, nói chậm hơn bình thường hoặc phải gắng sức khi nói.

Hậu quả

Theo các nhà nghiên cứu, khi bị thiếu máu não cục bộ trong vòng 30 giây sẽ gây rối loạn chuyển hóa não, sau 1 phút chức năng não sẽ ngừng hoạt động và sau 5 phút gây nhồi máu não. Vì vậy, đột quỵ não gây hậu quả rất nặng nề và đe dọa tính mạng người bệnh. Hiện nay, theo thống kê có khoảng 7 triệu người sống sót sau khi bị đột quỵ não, nhưng đa phần trong số họ bị khuyết tật vĩnh viễn về di chứng tâm thần, vận động... Đây cũng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật về tâm thần và vận động ở NCT.

Cần chủ động ngăn ngừa đột quỵ não

Trước diễn biến thời tiết thất thường, nhất là lạnh giá, mỗi NCT cần có biện pháp dự phòng đột quỵ. Điều quan trọng nhất là giữ ấm cơ thể, đặc biệt tránh để nhiễm lạnh đột ngột khi ra khỏi chăn ấm, ra khỏi phòng ngủ, nhất là ban đêm dậy đi tiểu tiện hoặc đi ra khỏi nhà khi trời lạnh, mưa, ẩm ướt. NCT vào mùa lạnh cần tắm nước ấm, trước khi tắm cần chuẩn bị quần áo sạch, tắm xong cần lau khô người và mặc quần áo ngay. Những gia đình có điều kiện nên trang bị đèn sưởi trong nhà tắm và sau khi tắm, mặc quần áo xong nên bật điều hòa nóng để sưởi ấm. NCT, khi trời lạnh nếu cần thiết phải ra khỏi nhà cần mặc ấm toàn thân, đầu đội mũ ấm, cổ quàng khăm ấm, tay và chân cần có tất, đi giày và nên đeo khẩu trang.

Lời khuyên của thầy thuốcVới những người bị tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, tăng mỡ máu hoặc các bệnh về tim mạch cần uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ, không được quên uống thuốc hàng ngày hoặc tự động đổi thuốc hoặc tự động thay đổi liều lượng thuốc.NCT nên tập vận động trong nhà, không nên tập ngoài trời khi còn lạnh giá, mưa phùn. Ngoài chế độ uống thuốc (nếu có bệnh huyết áp, tim mạch, tăng mỡ máu…), cần ăn uống kiêng mỡ động vật, kiêng rượu, bia, thuốc lá.

TS. BÙI MAI HƯƠNG

Giải mã sự bí ẩn ALS qua căn bệnh của Stephen Hawking

Stephen Hawking - thiên tài vật lý lý thuyết và vũ trụ học

Theo xác nhận của gia đình Stephen Hawking, ông ra đi vào sáng sớm ngày 14/3 tại nhà riêng ở TP. Cambridge, Anh. Hawking sinh ngày 8/1/1942, hiện đang đảm nhận chức giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm Vũ trụ học lý thuyết của Đại học Cambridge. Ông là tác giả 15 cuốn sách, trong số này có những tác phẩm nổi tiếng như The Big Bang và Lược sử thời gian đề cập về vấn đề vũ trụ. Ngày Stephen Hawking ra đời đúng vào dịp kỷ niệm 300 năm ngày mất của nhà thiên văn học kiêm vật lý Galileo Galilei. Trong số những công trình khoa học của Hawking, nổi bật nhất là dự án hợp tác với Roger Penrose về lý thuyết kỳ dị hấp dẫn trong khuôn khổ thuyết tương đối tổng quát, và tiên đoán lý thuyết hố đen phát bức xạ (tức bức xạ Hawking). Hawking là người đầu tiên khởi đầu một nền vũ trụ học dựa trên sự thống nhất giữa thuyết tương đối tổng quát với cơ học lượng tử. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ cách diễn giải nhiều thế giới về cơ học lượng tử. Cuốn Lược sử thời gian đứng trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times trong thời gian 237 tuần liền. Lược sử thời gian (A Brief History of Time) là ấn phẩm khoa học phổ thông, được xuất bản lần đầu vào năm 1988. Nó trở thành một cuốn sách bán chạy nhất với hơn 9 triệu bản trên quy mô toàn thế giới và là nguồn cảm hứng cho bộ phim tài liệu của Errol Morris.

Giải mã sự bí ẩn ALS qua căn bệnh của Stephen HawkingStephen Hawking những năm tháng mắc bệnh ALS

Về đời tư Stephen Hawking kết hôn với Jane Wilde tháng 7/1965, hai người có 3 mặt con, Robert, Lucy và Tim. Trong cuốn hồi ký, Hawking có ghi việc Wilde ngày càng trở nên trầm cảm vì tình trạng bệnh tật của ông. Cuối cùng, để giải thoát, ông và Wilde đã ly hôn vào năm 1990. Đến năm 1995, Stephen Hawking kết hôn với Elaine Mason, một y tá chăm sóc cho ông. Với những đóng góp to lớn cho nhân loại, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý và thiên văn học Hawking đã được trao nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Tự do Tổng thống, Giải Wolf, là thành viên của Hội Nghệ thuật Hoàng gia và Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng. Hawking đảm nhiệm vị trí giáo sư toán học tại Đại học Cambridge từ năm 1979 đến năm 2009. Năm 2002, ông được xếp đứng thứ 25 trong cuộc bình chọn 100 người Anh vĩ đại nhất của BBC.

1963 Các bác sĩ chẩn đoán ông chỉ có thể sống thêm 2 năm nữa

Hawking và 55 năm mang căn bệnh quái ác ALS

Năm 1963, khi mới 21 tuổi đang nghiên cứu sinh, Hawking bị chẩn đoán mắc bệnh xơ cứng teo cơ (ALS), hay bệnh Lou Gehrig, căn bệnh phá hủy hệ thống neuron thần kinh của cơ thể. Các bác sĩ chẩn đoán ông chỉ có thể sống thêm 2 năm nữa. Tuy nhiên, dạng bệnh ALS mà Hawking mắc phải lại tiến triển chậm hơn bình thường, nhờ đó ông đã sống tiếp hơn nửa thế kỷ. Nhưng nhờ nghị lực phi thường, niềm tin, sự say mê nghiên cứu khoa học, Hawking cảm thấy lạc quan hơn và ít đau đớn hơn.

Stephen Hawking mắc bệnh năm 1962 khi ông mới 21 tuổi

Căn bệnh ALS khiến ông ngày càng trở nên bất lực trong việc vận động. Nhà khoa học gần như bị liệt toàn thân và phải sử dụng xe lăn cả quãng đời còn lại. Năm 1986, Hawking buộc phải bỏ giọng nói để giữ được mạng sống sau khi bị viêm phổi nặng. Từ đó, ông phải sử dụng hệ thống máy tính trợ giúp đặt trên tay xe lăn để giao tiếp. “Tôi cố gắng điều hướng cuộc sống bình thường nhất có thể, không nghĩ nhiều về tình trạng bệnh tật hay tiếc nuối về những thứ ngăn cản tôi làm việc. Tôi đã có một cuộc sống đầy đủ, thỏa mãn..., đáng tiếc do sức khỏe, không đóng góp thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết của chúng ta về vũ trụ”, Hawking viết trong hồi ký.

Mặc dù đã qua đời ở tuổi 76, nhưng Stephen Hawking đã sống một cuộc đời không chỉ để làm nên kỳ tích trong ngành vật lý và thiên văn mà còn là tấm gương “vượt lên số phận” chiến thắng căn bệnh ALS hiểm nghèo trong suốt 55 năm qua.

Thấy gì qua nghị lực và tuổi thọ của Hawking khi mắc bệnh ALS?

Ngoài thiên tài về khoa học, Stephen Hawking còn là người đã thực sự “chiến thắng số phận”, trở thành người sống lâu nhất với căn bệnh ALS bởi theo thống kê của Hiệp hội ALS, tuổi thọ trung bình của người mắc bệnh này không quá 2 - 3 năm sau khi được chẩn đoán. Hơn 50% số người bệnh qua đời trong năm thứ 3 và 20% sống được tới năm thứ 5. Hiếm hoi, có khoảng 10% người sống trên 10 năm và 5% sống được trên 20 năm, nhưng riêng Hawking đã đạt kỷ lục “ngoại hạng” với trên 55 năm.

Giải mã sự bí ẩn ALS qua căn bệnh của Stephen HawkingCuốn Lược sử thời gian của Hawking, ấn phẩm bestseller

Việc Stephen Hawking “sống chung” cùng ALS được xem là điều “kỳ diệu y học”, nó giúp con người hiểu sâu thêm về những bí ẩn của căn bệnh này. Đây là căn bệnh mà đến nay, khoa học vẫn chưa giải thích được nguyên nhân cho tới cách phòng ngừa, chữa trị. Điều này cho thấy Hawking là một “hiện tượng”, nếu giải mã được, hy vọng sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho nhóm người chẳng may mắc phải căn bệnh này. ALS là từ viết tắt cho cụm từ Amyotrophic Lateral Sclerosis. Có thể hiểu ngắn gọn là bệnh xơ cứng teo cơ, hay bệnh Lou Gehrig sau khi VĐV bóng chày người Mỹ được chẩn đoán bệnh năm 1939 ở tuổi 36. Đặc thù của bệnh ALS là làm suy thoái hệ thần kinh, nó xảy ra khi các tế bào thần kinh đặc biệt trong não và tủy sống được gọi là neuron động cơ ngừng hoạt động không đúng cách, chuyên môn gọi là thoái hóa thần kinh (neurodegeneration). Như đã đề cập, tuổi thọ của nhóm người ALS rất ngắn, nhưng tiến trình bệnh diễn ra rất chậm như Hawking quả là hiếm gặp, chỉ chiếm khoảng 1% số ca mắc bệnh ALS.

Trường hợp của Hawking đã cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy, ALS là căn bệnh tiến hóa mạnh hơn so với giả định, với nhiều dạng bệnh, và được chia thành bốn loại:

Một, ALS (làm yếu các nơ-ron vận động trên, các nơ-ron vận động dưới hoặc cả hai). Hai, PMA (chủ yếu làm suy yếu các nơ-ron vận động dưới). Ba là PLS (chủ yếu làm yếu các nơ-ron vận động trên) và bốn là chứng bại liệt tràn lan (chủ yếu làm suy yếu cơ xương sọ). Tất cả các dạng này đều có khả năng giết chết bệnh nhân do ảnh hưởng đến hệ hô hấp (cơ hoành) và cơ nuốt (gây suy dinh dưỡng và mất nước). Tuy nhiên, cơ hoành và cơ nuốt của Hawking vẫn còn nguyên vẹn cho đến khi ông qua đời đầu tháng Ba. Điều này, khoa học cho rằng, nếu đúng như vậy thì bệnh nhân có thể sống lâu hơn dự kiến, ngay cả khi họ mất khả năng di chuyển và nói chuyện. Trường hợp của Hawking một lần nữa khẳng định những người mắc bệnh ALS có thể thoát khỏi những tổn hại tác động tới các bộ phận quan trọng của não.

Giải mã sự bí ẩn ALS qua căn bệnh của Stephen HawkingStephen Hawking ra đi ở tuổi 76 hôm 14/3 vừa qua

Lý giải về hiện tượng trường thọ của Hawking, có ý kiến cho rằng Hawking đã được được chẩn đoán ở độ tuổi còn trẻ, bởi thực tế bệnh ALS thường được chẩn đoán (chủ yếu là nam giới) trên 40 tuổi, và hầu hết người bị bệnh thường phát triển các triệu chứng ở tuổi 60. Do vậy nếu trẻ vị thành niên mắc bệnh ALS, thì tốc độ phát triển chậm hơn so với nhóm tuổi phát hiện muộn. Tuy nhiên, cũng không loại trừ các yếu tố di truyền, trong đó phần lớn mang đột biến gen có tên A4V làm rút ngắn tuổi thọ và làm cho bệnh tình thêm trầm trọng. Tại Mỹ, những bệnh nhân mang đột biến này chỉ sống được không quá 9 tháng. Hawking là người mắc bệnh ALS nhưng không sử dụng máy thở, không giống như đa số những bệnh nhân ALS khác, điều này cho thấy căn bệnh đã ảnh hưởng đến Hawking theo một cách khác với hầu hết những người còn lại. Về phần mình khi còn sinh thời, Hawking cho rằng công việc nghiên cứu đã giúp ông có nhiều lợi thế hơn các bệnh nhân ALS khác. Ngoài ra, ông còn được chăm sóc đặc biệt, đây có thể là những yếu tố góp phần cho nhà khoa học sống thọ hơn so với những người đồng cảnh ngộ.

Giải mã sự bí ẩn ALS qua căn bệnh của Stephen HawkingFDA vừa phê duyệt hai loại thuốc mới để điều trị ALS, có tác dụng kéo dài thêm thời gian sống cho bệnh nhân

Hiện tại, căn bệnh này chưa có thuốc đặc trị. Cơ quan Quản lý Thực & Dược phẩm Mỹ (FDA) mới phê duyệt hai loại thuốc để điều trị ALS, có tên riluzole (Rilutek) và edaravone (Radicava). Mỗi loại thuốc này có thể giúp bệnh nhân kéo dài thêm thời gian sống chừng 6 tháng.

BS. BÍCH KIM

(Theo DM//USA Today/ABC/DBT- 3/2018)

Hi hữu: Gắp gần 100 dị vật nhỏ găm phức tạp trên mặt bệnh nhân bị tai nạn nguy kịch

Bệnh nhân là Lương Viết N. (43 tuổi) trú tại phường Cẩm Tây, TP Cẩm Phả bị tai nạn lao động nguy kịch. Sau khi điều trị ở tuyến dưới một thời gian, tình trạng không tiến triển nên bệnh nhân đã được chuyển lên khoa Hồi sức tích cực, Bệnh viện Đa khoa tỉnh để tiếp tục điều trị từ ngày 7/3. Chẩn đoán ban đầu của anh N. là bị chấn thương vùng ngực, hàm mặt, vỡ nhãn cầu mắt phải đã múc, dập nát cẳng bàn tay phải đã cắt cụt và chấn thương phần mềm nhiều nơi.

Sau thời gian điều trị ổn định, bệnh nhân được đưa đi chụp cắt lớp vi tính 128 lát và dựng hình 3D, các bác sĩ bất ngờ phát hiện anh N. có khoảng trên 100 dị vật găm vào vùng mặt, sọ, hốc mắt và xoang hàm bên phải. Dị vật chủ yếu là những mảnh vụn kim loại, than nhỏ li ti găm sâu vào nhiều vị trí bên phần mặt phải của bệnh nhân.

Hơn 100 dị vật nhỏ găm vào vùng mặt, sọ, hốc mắt và xoang hàm bên phải của bệnh nhân (Ảnh thật và ảnh sọ não dựng hình 3D).

Nhận định đây là trường hợpkhó, nhiều vùng tổn thương phức tạp, các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành hội chẩn trực tuyến với Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương Hà Nội quyết định phẫu thuật lấy dị vật cho bệnh nhân N. Kíp phẫu thuật do ThS.BS Nguyễn Tấn Văn – Phó Trưởng khoa Phẫu thuật tạo hình hàm mặt, Viện Răng hàm mặt Trung ương Hà Nội, BS.CKII Nguyễn Công Suất – Trưởng khoa Răng hàm mặt Bệnh viện và bác sĩ khoa Răng hàm mặt Nguyễn Văn Tài thực hiện.

Các bác sĩ đã tiến hành phẫu thuật bộc lộ toàn bộ vùng mặt theo đường Corolan để loại bỏ những mảnh vụn găm sâu vào khu vực hàm mặt của bệnh nhân. Sau khoảng 3 tiếng, kíp mổ đã lấy được trên 80% dị vật vùng sọ mặt phải, đặc biệt ởcác vị trí khó như trong xoang hàm cũng đã được lấy ra an toàn. Bệnh nhân tiếp tục được theo dõi, chăm sóc và phục hồi tích cực tại phòng hậu phẫu.

Dưới sự hỗ trợ của tuyến trên, các bác sĩ khoa Răng hàm mặt Bệnh viện ĐK tỉnh đã lấy được trên 80% dị vật ra khỏi vùng hàm mặt.

Bác sĩ CKII Nguyễn Công Suất – Trưởng khoa Răng hàm mặt Bệnh viện ĐK tỉnh Quảng Ninh cho biết: “Đây là lần đầu tiên khoa Răng hàm mặt tiếp nhận và thực hiện phẫu thuật thành công cho ca dị vật đặc biệt này. Trường hợp của anh N. vô cùng hiếm gặp bởi số lượng dị vật rất nhiều, kích thước nhỏ lạigăm sâu, len lỏi vàonhững vị trí nguy hiểm vùng đầu và mặt nên khi tiến hành mổ, phẫu thuật viên phải thật cẩn thận, khéo léo và tỉ mỉ thì mới có thể loại bỏ dị vật mà vẫn đảm bảo an toàn cho người bệnh. Nếu không được phẫu thuật kịp thời, với số lượng dị vật nhiều như vậy sẽ nhanh chóng dẫn nhiễm trùng tại chỗ, gây đến tổn thương nghiêm trọng hơn”.

Việc thực hiện thành công ca phẫu thuật đặc biệt gắp cho bệnh nhân hơn 100 dị vật vùng hàm mặt của các bác sĩ khoa Răm hàm mặt Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh khẳng định trình độ, tay nghề chuyên môn của đội ngũ bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật hàm mặt của Bệnh viện Đa ngày càng được hoàn thiện, từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng điều trị, mang tới niềm tin, hy vọng, sự yên tâm và hài lòng cho người bệnh.

Hà Trang